1. Đặt vấn đề
Theo quy định hiện hành, với trình độ đào tạo đại học, những học phần bắt buộc đối với tất cả các ngành đào tạo gồm: Triết học, Kinh tế chính trị, Mác- Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng, Xác suất thống kê và Pháp luật đại cương. Các học phần này đều là những môn học có tính chất nền tảng thuộc khối kiến thức đại cương nên hầu hết các trường đại học hầu hết đều sắp xếp lịch học vào năm đầu tiên của niên khóa đào tạo. Mặc dù những môn học này nhiều sinh viên cho là nhàm chán nhưng nó lại giúp các sinh viên có thể phát huy được tính logic và phương pháp tự học của mình. Đặc biệt làm cơ sở cho các sinh viên học tốt những môn tiếp theo và phương pháp tiếp cận những môn học những lý thuyết làm quen với môi trường đại học, bổ sung thêm những kiến thức cơ bản. Trong đó, học phần PLĐC có ý nghĩa rất quan trọng, nó trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về Nhà nước và Pháp luật trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
Theo quy định, học phần PLĐC tại trường ĐHĐN được giảng dạy với khối lượng 02 tín chỉ (30 tiết lí thuyết). Sau khi kết thúc học phần, sinh viên có được tư duy khoa học và phương pháp nhận thức khoa học về những vấn đề nhà nước và pháp luật và vận dụng những kiến thức đã học để phân tích, giải thích hiện tượng nhà nước và pháp luật trong thực tế. Vai trò của học phần PLĐC là truyền đạt cho sinh viên những kiến thức cơ bản về nguồn gốc, bản chất, chức năng, hình thức, kiểu, vai trò của nhà nước và pháp luật; bộ máy nhà nước; mối quan hệ giữa nhà nước, pháp luật với các hiện tượng xã hội khác; quá trình vận động và phát triển của nhà nước và pháp luật; quy phạm pháp luật; quan hệ pháp luật; thực hiện pháp luật; ý thức pháp luật; vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí; pháp chế, nhà nước pháp quyền… Chính vì vậy, học phần PLĐC trang bị cho sinh viên tư duy pháp lý, kỹ năng, phương pháp tiếp cận, vận dụng các vấn đề pháp lý vào thực tiễn, nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật cho sinh viên, góp phần hình thành tác phong sống làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
2. Dạy và học môn Pháp luật đại cương ở Trường Đại học Đại Nam hiện nay
Theo quan sát của giảng viên trực tiếp giảng dạy trên giảng đường, thực trạng chất lượng và năng lực, nhận thức, hiểu biết của sinh viên trường ĐHĐN đối với học phần PLĐC được đánh giá: Các sinh viên có ý thức học tập, chú ý lắng nghe giảng viên giảng dạy, hăng hái trả lời các câu hỏi tình huống giảng viên đặt ra, có khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn linh hoạt, sáng tạo, có sức thuyết phục gắn với cuộc sống. Tuy nhiên, một số tình huống thực tiễn mà giảng viên đặt ra với yêu cầu sinh viên vận dụng kiến thức của học phần để giải quyết cho thấy khả năng và kỹ năng của sinh viên vận dụng pháp luật vào thực tiễn thông qua học phần PLĐC vẫn còn một số hạn chế như: mức độ nắm bắt kiến thức của sinh viên chưa sâu, chưa đầy đủ, nhất là liên quan đến các vấn đề lý luận về nhà nước và pháp luật; kỹ năng vận dụng các kiến thức của bốn ngành luật thực định trong khuôn khổ học phần PLĐC còn hạn chế; phương pháp học còn mang tính thụ động, thiếu sự sáng tạo, linh hoạt và tính phản biện.
Kết quả của các bài kiểm tra định kỳ (câu hỏi vận dụng vào tình huống) có khoảng 35% đạt điểm khá giỏi, 60% đạt điểm trung bình và 5% có điểm trung bình yếu. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là hầu hết các câu hỏi về lý thuyết của giảng viên nêu ra tại các lớp dạy sinh viên đều trả lời được sau 1-2 phút (nhờ tìm kiếm trên Google) nhưng khi hỏi về vận dụng vào tình huống cụ thể thì phần nhiều không trả lời ngay được. Ở các lớp dạy trực tiếp giảng đường, khi giảng viên đặt ra câu hỏi sau 1-2 phút thì ít có sinh viên trả lời được ngay (không kịp tìm kiếm Google) hoặc có trả lời, có ý đúng nhưng không lý giải được vấn đề.
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả cũng đã có một cuộc khảo sát nhỏ đối với 100 lượt sinh viên năm học 2023 – 2024 tại nhiều lớp khác nhau với câu hỏi trả lời nhanh: “Theo anh, chị môn học PLĐC có hữu ích với bản thân, nghề nghiệp đang học như thế nào, cho ví dụ?”; kết quả thu được 100/100 sinh viên trả lời có hữu ích đối với bản thân và nghề nghiệp nhưng chỉ có 65 sinh viên có đưa ra được ví dụ nhưng chưa đầy đủ; 20 sinh viên có đưa ra ví dụ nhưng chưa đạt yêu cầu và 5 sinh viên còn lại chưa trả lời được ngay. Khi hỏi đến “Anh, chị cảm nhận thế nào về môn học PLĐC?”; kết quả thu được 60/100 sinh viên trả lời học PLĐC nhiều ngôn từ pháp lý khó hiểu, khó hình dung; 25/100 sinh viên trả lời bình thường; 15/100 sinh viên trả lời khó hiểu và khô khan cứng nhắc… không hứng thú với môn học PLĐC. Tuy rằng ĐHĐN hiện nay có hơn 10.000 sinh viên so với con số 100 sinh viên được phỏng vấn nói trên vẫn chưa thể nói lên điều gì nhưng với cảm nhận của nghề nghiệp qua thực tiễn có thể khái quát hóa rằng: Khả năng tiếp thu kiến thức về Nhà nước và pháp luật thông qua giảng dạy học phần PLĐC cũng như kỹ năng vận dụng pháp luật vào thực tiễn ở một số bộ phận không nhỏ trong sinh viên có mặt còn hạn chế. Trên cơ sở nghiên cứu và nắm bắt tình hình chung thông qua nhiều tài liệu, báo chí truyền thông có thể nói đây là tình trạng chung của các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp hiện nay.
Nguyên nhân về tồn tại, hạn chế thực trạng trên có thể khái quát được rằng:
– Về khách quan: Học phần PLĐC theo quy định của trường ĐHTL với thời lượng 02 tín chỉ (30 tiết lí thuyết) là rất hạn chế so với nội dung kiến thức cần chuyển tải đến với người học. Chẳn hạn những vấn đề cơ bản về Nhà nước và pháp luật, hệ thống pháp luật Việt Nam, các chuyên ngành như: Bộ Luật dân sự, Luật Hình sự, Luật Hiến pháp – hành chính,… là những học phần lớn của ngành luật học có từ 45 -60 tiết/học phần. Mặc dù học phần PLĐC chỉ là khái quát chung nhưng phạm vi của nó rất rộng làm cho sinh viên khó có thể nắm bắt hết những vấn đề cơ bản để liên hệ vào thực tiễn một cách hiệu quả thiết thực. Tình trạng sinh viên lơ là, sao nhãng, thái độ học tập chưa nghiêm túc, vào muộn, ra sớm với nhiều lý do khách quan vì sự cố kỹ thuật, nếu có sinh viên học thay thì giảng viên không thể lúc nào cũng kiểm soát hết được. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ giảng viên mặc dù có trình độ học hàm học vị, năng lực kinh nghiệm nhưng ít nhiều có phần hạn chế về lý luận thực tiễn.
– Về chủ quan: Nội dung bài giảng hiện nay mặc dù đã có sự hoàn thiện đáng kể nhưng một số vấn đề chưa được trọng tâm trọng điểm, nhất là cập nhật sự thay đổi về chính sách pháp luật chưa kịp thời. Một số giảng viên phương pháp giảng dạy vẫn còn “cố hữu” theo kiểu cách truyền thống mà chưa tạo được sự đổi mới, linh hoạt, sáng tạo theo hướng “lấy người học làm trung tâm” và phù hợp tâm lý người học. Sự nhàm chán ấy có thể làm cho người học ít phát huy tốt nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Theo đó, tinh thần thái độ nghiêm túc, nhiệt tình hay không của giảng viên cũng như việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên có công bằng, khách quan hay không cũng ảnh hưởng đến hứng thú học tập của người học. Điều đó đã tạo ra tâm lí của người học chán với môn học PLĐC, ít có sự cố gắng và hứng thú với môn học PLĐC.
Một bộ phận không nhỏ sinh viên không chịu khó nghiên cứu tìm tòi học hỏi nâng cao hiểu biết trong học tập, quan niệm PLĐC chỉ là môn học phụ, môn học điều kiện. Vì thế chỉ chỉ cần học qua loa, tích lũy đủ số tín chỉ để ra trường do môn học có khối lượng kiến thức đa dạng với nhiều thuật ngữ, khái niệm trừu tượng khó học, khó hiểu, khó hình dung, khó vận dụng. Không yêu thích, hứng thú với nghiên cứu, học tập môn học dẫn đến tình trạng sinh viên bỏ giờ, thờ ơ với môn học cũng như kết quả học tập môn học thấp
3. Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn học PLĐC ở Trường Đại học Đại Nam
Mục đích, yêu cầu của học phần PLĐC là giúp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về Nhà nước và Pháp luật nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Qua đó từng bước xây dựng nhân cách, văn hóa, đạo đức con người mới trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đòi hỏi mỗi con người phải có kiến thức hiểu biết về nhà nước và pháp luật. Sinh viên trường ĐHĐN phải nắm vững kiến thức về Nhà nước và Pháp luật làm nền tảng nền tảng cho những môn học tiếp theo và cũng là hành trang trên con đường khởi nghiệp. Trước hết chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và sớm khắc phục tình trạng “học luật mà không hiểu luật”, “hiểu luật, không biết vận dụng pháp luật”, đòi hỏi khách quan phải có sự cố gắng từ phía giảng viên và sinh viên cũng như sự quan tâm chỉ đạo của Nhà trường cụ thể:
Về phía giảng viên
– Giảng viên phải là người thực sự yêu nghề nghiệp, có tâm huyết, vững chuyên môn, am hiểu thực tiễn, có kỹ năng, nghệ thuật truyền cảm hứng với người học; tích cực học tập, nghiên cứu khoa học để nâng cao tri thức và cả trình độ lý luận và thực tiễn; nghiên cứu thêm nhiều tài liệu tham khảo, tìm hiểu thêm các thông tin và cập nhật liên tục các tin mới mang tính thời sự hàng ngày có liên quan để bổ sung vào vốn hiểu biết của mình, làm giàu tri thức cho bản thân; nghiên cứu tìm tòi học hỏi nâng cao năng lực, đạo đức nghề nghiệp và vận dụng các phương pháp dạy học mới, phù hợp và phát huy tính năng động sáng tạo của người học.
– Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, “lấy người học làm trung tâm” là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thay đổi thái độ học tập của sinh viên. Tuy nhiên, đổi mới như thế nào cho hiệu quả còn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của trường, lớp để giảng viên có thể sáng tạo linh hoạt sao cho phù hợp với tâm lý người học. Trong đó đặc biệt chú trọng đến tính linh hoạt, khả năng, kỹ năng vận dụng pháp luật vào cuộc sống một cách hiệu quả nhất, đòi hỏi phải có sự cải thiệt đáng kể trong phương pháp truyền đạt kiến thức chẳng hạn như:
+ Thay đổi phương pháp giảng dạy truyền thống làm cho sinh viên thoát ra được thói quen như học phổ thông “ thầy đọc – trò chép” trước đây mà bằng nhiều cách khác nhau sao cho kích thích tư duy, năng động, linh hoạt, sáng tạo mang tính gợi mở cho người học và làm cho người học thay đổi dần thái độ trong chờ ỷ lại vào giảng viên. Qua đó, tạo cho sinh viên tính chủ động, tính tự giác đón nhận kiến thức từ giảng viên cung cấp sẽ làm giảm đi sự đơn điệu nhàm chán cho sinh viên.
+ Tăng cường phương pháp thảo luận nhóm, nêu vấn đề, kể chuyện, đóng vai, đàm thoại… điều kiện để sinh viên rèn luyện các kỹ năng cần thiết làm việc nhóm, kỹ năng làm báo cáo và kể cả kĩ năng thuyết trình trước đám đông,… Những kỹ năng này rất cần thiết mà sinh viên cần trang bị ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Giảng viên cần phải tổ chức thường xuyên các buổi thảo luận theo chuyên đề trên cơ sở nội dung đã học tăng cường khả năng làm việc theo nhóm.
+ Hướng nội dung bài giảng với thực tiễn cuộc sống, không chỉ gói gọn truyền đạt những kiến thức trong bài giảng hoặc trong giáo trình của môn học mà không liên hệ gì với thực tiễn. Phần lý thuyết (bài giảng, tài liệu) chuyển giao cho các sinh viên qua Nhóm zalo của lớp nghiên cứu trước để khi lên lớp giảng viên chỉ định hướng, gợi mở cho sinh viên tư duy lý luận làm sáng rõ các vấn đề. Người học sẽ cảm thấy không còn nhàm chán, tẻ nhạt qua đó gắn kết giữa giảng dạy lý luận với thực tiễn sẽ tạo không khí sinh động động hơn. Những tri thức mà giảng viên mang lại là hoàn toàn bổ ích vì nó giúp người học lý giải được những sự vật, hiện tượng và kể cả những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đã và đang đặt ra.
+ Hướng sinh viên học rèn luyện kỹ năng vận giữa lý thuyết của bài học gắn với thực tiễn cuộc sống là công việc khó lựa chọn các dẫn chứng thực tế nên phải có nghệ thuật dẫn dắt vấn đề, tạo không khí sôi nỗi để lôi cuốn sinh viên cùng tham gia ngay tại lớp học (câu tục ngữ, ca dao, sự kiện kinh tế – chính trị – xã hội nóng đặt ra của bản thân, của gia đình, nhà trường…). Chú ý khi giảng lý thuyết đến phần nào thì nêu tình huống liên quan đến phần đó và gợi mở, định hướng cho sinh viên nắm được bản chất vấn đề, tra cứu tài liệu, tư duy lô gich, lập luận, áp dụng văn bản pháp luật để giải quyết vấn đề thấu tình đạt lý.
+ Tăng cường việc “hỏi – đáp” tương tác giữa người dạy và người học, tạo nên môi trường học tập gần gủi thân thiện, dân chủ, khách quan giữa thầy và trò làm cho các sinh viên mạnh dạn, tự tin cảm hứng với bài học hơn. Hướng dẫn sinh viên các kỹ năng trao đổi, giao tiếp, ứng xử, nhất là tính phản biện của sinh viên trong các câu hỏi giải quyết tình huống. Qua đó có thể kiểm tra, đánh giá được trình độ hiểu biết của người học, phát hiện ra những hạn chế kiến thức mà sinh viên chưa nắm bắt được để có phương pháp dạy học sao cho phù hợp trình độ nhận thức của người học có thể nắm bắt được những kiến thức hiệu quả nhất.
+ Chú trọng sự tương tác giữa người dạy và người học tạo môi trường học tập gần gũi cởi mở, dân chủ, không gò bó với người học. Từ đó nắm bắt được tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, mong muốn của sinh viên khi học tập hay những khó khăn mà sinh viên đang gặp khó khăn vướng mắc trong học tập và sẵn sàng chia sẻ, hỗ trợ sinh viên khắc phục khó khăn trong mọi lúc. Sự tương tác này sẽ tạo nên sự gần gũi giữa người dạy và người học tạo nên cơ hội cho sinh viên phát huy ý thức, tinh thần trách nhiệm và cả thay đổi nhận thức về môn học góp phần tạo hứng thú môn học PLĐC tốt hơn.
– Đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá người học là khâu quan trọng trong quá trình đào tạo và được diễn ra đối với tất cả các môn học, học phần. Đối với PLĐC, trong kiểm tra, đánh giá giảng viên nên thay đổi theo hướng đánh giá đúng thực lực của người học, chú trọng đánh giá các kỹ năng của sinh viên, thái độ học tập và giá trị mà môn học đem lại bằng những câu hỏi mở mang tính tư duy lý luận gắn với thực tiển cuộc sống, gắn với quyền lợi ích hợp pháp của bản thân.
– Đánh giá kết thúc học phần thực hiện thông qua trắc nghiệm phải bảo đảm đúng, đủ nội dung chính kiến thức môn học. Phải hướng tới các vấn đề thiết thực, gắn liền, gần gũi với cuộc sống sinh viên nhưng phải biết vận dụng kiến thức đã học để luận giải vấn đề sao cho có sức thuyết phục, thấu tình đạt lý, đúng pháp luật. Qua đó có thể đánh giá được trình độ hiểu biết của người học vừa đánh giá được khả năng, kỹ năng vận dụng pháp luật, những tri thức mới của bài học để giải quyết những vấn đề mà cuộc sống đã và đang đặt ra một cách đúng đắn.
– Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào dạy học như: E-learning, phần mềm dạy học trực tuyến Microsoft Teams, Zoom; soạn bài trình chiếu, giảng bài, gửi bài qua Zalo, tin nhắn, tạo bài, sửa bài, chấm bài trên các phần mềm Azota, Zalo và giải đáp kịp thời những thắc mắc từ sinh viên; lưu trữ bài giảng, tài liệu học tập dưới nhiều định dạng khác nhau (word, PDF, video…) tạo thuận lợi cho giảng viên cả về việc tổ chức, quản lý lớp học cũng như đánh giá chất lượng học tập của sinh viên.
Như vậy, sự đổi mới nâng cao chất lượng của giảng viên có thể làm cho sinh viên ĐHĐN thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng và những giá trị thiết thực của PLĐC mang lại và sẽ làm thay đổi nhận thức tinh thần thái độ của sinh viên đối với học phần PLĐC tích cực, hiệu quả hơn.
Về phía sinh viên
Những thay đổi tích cực từ giảng viên ở trên sẽ tất yếu có sự thay đổi từ sinh viên về tư tưởng nhận thức cho đến hành vi đối với học phần PLĐC sẽ không còn quan niệm đây chỉ là các môn học điều kiện; không phải là môn học chính, môn chuyên ngành; là môn học kiến thức khô khan, trừu tượng, khó học và ít có giá trị thực tiễn; không còn nhàm chán, không có động lực học tập, không còn có thái độ thờ ơ, thậm chí bất hợp tác khi học tập môn học.
Để hiện thực tốt điều này và khắc phục tồn tại hạn chế lâu nay, sinh viên ĐHĐN phải tự rèn luyện khắc phục những vấn đề đặt ra trước mắt là:
– Học tập tốt môn học PLĐC, yếu tố đầu tiên là sinh viên phải có cảm hứng, phải có thái độ đúng đắn, xác lập mục tiêu rõ ràng khi học tập môn học. Đòi hỏi từ hai phía, sinh viên phải tự nhận thức và hành động và giảng viên giảng dạy phải làm thay đổi nhận thức và hành động của sinh viên thông qua nghệ thuật giảng dạy của mình bằng việc truyền cảm hứng và làm cho người học cảm nhận được giá trị mà môn học đem lại hữu ích với họ như trình bày phần trên.
– Sinh viên cần phải lựa chọn và xây dựng cho mình một phương pháp học phù hợp để thoát ra khỏi sự ảnh hưởng bởi phương pháp học tập tại trường phổ thông. Phải thích ứng với sự thay đổi mối trường mới, cách tiếp cận kiến thức mới, phương pháp truyền đạt kiến thức mới của giảng viên. Xây dựng phương pháp học tập riêng phù hợp với mỗi cá nhân dựa trên những đặc điểm tính cách riêng, chịu sự chi phối bởi nội dung cũng như đặc thù môn học. Phương pháp học tập khoa bằng tự học, tự nghiên cứu, dùng kiến thức lý luận để lý giải những vấn đề thực tiễn cuộc sống.
– Sinh viên cần phải đầu tư cho mình các trang thiết bị cần thiết đáp ứng tối thiểu cho yêu cầu môn học như: Máy tính xách tay, mạng wifi, kết nối wifi, tài liệu nghiên cứu liên quan môn học…; ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào học tập như: Microsoft Teams, Zoom, Azota, Zalo qua máy tính, điện thoại thông minh có kết nối internet giúp sinh viên tham gia lớp học một cách dễ dàng. Đầu tư thời gian thích ứng cho môn học, suy ngẫm kỹ càng nội dung kiến thức, chia sẻ với giảng viên những nội dung, các vấn đề khó khăn phức tạp đến khi nào cảm nhận được giá trị thiết thực mà kiến thức PLĐC mang lại thì khi đó mới có cảm hứng với môn học.
– Tự rèn luyện cho bản thân luôn luôn đề cao tinh thần hợp tác, chia sẽ kinh nghiệm và tạo cho mình có thói quen trước khi lên lớp phải đọc sách, tài liệu, soạn bài, đọc giáo trình, tài liệu tham khảo để vào lớp học với tâm trạng rất thoải mái, không có áp lực gì. Khi nắm được kiến thức cơ bản của nội dung buổi học cần giải quyết, sẽ chủ động hơn, hiệu quả học tập sẽ cao hơn. Đặc biệt là kỹ năng phân tích, đánh giá, nhận định vấn đề; tra cứu tài liệu, áp dụng Điều luật và lập luận, luận giải vấn đề trong giải quyết tình huống thực tiễn cuộc sống gắn với bản thân sẽ thấy giá trị, ý nghĩa mà môn học đem lại.
– Vận dụng những kiến thức các môn học, lý luận chính trị, quan điểm chính trị… để giải thích các sự vật, hiện tượng, những vấn đề mà cuộc sống đã và đang đặt ra. Kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống là một trong những yêu cầu cơ bản của quá trình đào tạo. Sinh viên thấy được giá trị, ý nghĩa của môn học càng trở nên quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống đặt ra là vô cùng phong phú, từ những vấn đề đơn giản ở góc độ nhỏ đến những vấn đề khó ở phạm vi rộng lớn, phức tạp. Phải vận dụng như thế nào, phải lựa chọn vấn đề phù hợp với kiến thức ứng dụng một cách có hiệu quả.
– Tích cực rèn luyện tư duy độc lập, phát huy tính chủ động, sáng tạo, khả năng lập luận logic trong trao đổi thảo luận, phản biện cùng nhau đối thoại để giải quyết một vấn đề lý luận hoặc thực tiễn đặt ra. Tự nâng cao năng lực tính tự học, tính chủ động, tính độc lập, tính kiềm chế, suy nghỉ kỹ càng trước phân tích, phê phán, lập luận, dẫn chứng để bảo vệ chính kiến của mình. Chú ý trong việc trao đổi thảo luận nhóm phải luôn dân chủ, khách quan, tranh luận để tìm ra chân lý dựa trên những tài liệu, quan điểm của thành viên trong nhóm tìm hiểu. Sản phẩm của nhóm là sản phẩm của trí tuệ tập thể, tập hợp sự sáng tạo của nhiều người, giúp cho sinh viên hiểu và nhớ kiến thức lâu hơn, khám phá ra được những khía cạnh mới đối với các vấn đề khoa học trong chương trình giảng dạy.
Về phía Nhà trường và Khoa Luật
– Nhà trường ĐHĐN cần quan tâm chỉ đạo nhiều hơn đối với Khoa Luật trong hoàn thiện xây dựng chương trình, kế hoạch nghiên cứu thực tế hằng năm cho cán bộ giảng viên đi nghiên cứu thăm quan học tập kinh nghiệm trong và ngoài nước để nâng cao năng lực phục vụ tốt cho công tác dạy học. Theo đó là vận dụng để có các chính sách thu hút giảng viên có năng lực kinh nghiệm và khuyến khích về hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn dài hạn trong và ngoài nước nhằm từng bước nâng cao năng lực cho cán bộ, giảng viên.
– Khoa Luật cần tổ chức nhiều diễn đàn sinh hoạt về chuyên các chuyên đề hơn, nhất là các ngành đào tạo mới được mở để tạo điều kiện cho các cán bộ giảng viên có điều kiện thuận lợi giao lưu chia sẽ học hỏi kinh nghiệm nhau nâng cao kỹ năng giảng dạy. Trong đó cần xem xét đề xuất tăng số tiết của học phần PLĐC đến mức có thể và chuẩn hóa nội dung, chương trình, giảng dạy theo những vấn đề trọng tâm trọng điểm. Tăng cường hướng dẫn ứng dụng khoa học công nghệ trong dạy và học, cập nhật mới các thông tin dữ liệu, kiến thức phong phú, đa dạng, khai thác đa chiều từ internet phục vụ dạy học. Phân công, bố trí cán bộ giảng viên phụ trách nhóm các nhóm ngành phù hợp với năng lực chuyên môn và có chủ trương linh hoạt hỗ trợ trách nhiệm tương ứng chế độ quản lý khi chưa được kiện toàn.
– Thường xuyên, nghiên cứu đổi mới phương thức truyền đạt kiến thức nói chung và nâng cao kỹ năng vận dụng pháp luật vào cuộc sống thông qua học phần PLĐC và các kỹ năng ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào công tác nghiên cứu giảng dạy. Mỗi cán bộ giảng viên cần cố gắng nhiều hơn để cùng chung tay góp sức xây dựng các phòng, Khoa, Bộ môn vững mạnh góp phần đắc lực cho ĐHĐN luôn phát triển
3. Kết luận
Học phần PLĐC được sinh viên cho là môn học khó nhưng nó mang lại những giá trị rất quan trọng cho mỗi con người, hiểu biết pháp luật để nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân đối với Nhà nước và xã hội ngay từ môi trường đại học. Mặt khác, PLĐC không chỉ làm nền tảng cho các môn học sau mà còn là “gói” hành trang cho sinh viên trên con đường khởi nghiệp. Muốn chuyển hóa từ môn học khó thành môn học dễ, bài giảng khô khan cứng nhắc thành bài giảng mềm mại yêu thích, đòi hỏi khách quan từ nhiều phía. Trước hết là sự đổi mới, sáng tạo về phương pháp dạy học của giảng viên, tiếp đó là sự nỗ lực cố gắng từ mỗi sinh viên trong học tập, cùng với sự quan tâm chỉ đạo đúng mức của Nhà trường đối với Khoa, Bộ môn và tập thể cán bộ giảng viên. Có như vậy, học phần PLĐC sẽ trở nên gần gũi, gắn bó với tập thể cán bộ, giảng viên, sinh viên ĐHĐN, góp phần tích cực trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Báo cáo tổng kết của Trường Đại học Đai Nam năm 2021, 2022, 2023 và các văn bản tài liệu liên quan
- Lê Minh Toàn (chủ biên, 2014). Pháp luật đại cương. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật.
- Lê Văn Minh (chủ biên, 2016). Pháp luật đại cương. NXB Hồng Đức.
- Nguyễn Hoàng Hiếu – Hoàng Tuấn Anh. Một số biện pháp nâng cao hứng thú học phần pháp luật đại cương cho sinh viên trường Đại học Công nghiệp Việt -Hung. Tạp chí Giáo dục đặc san 12/2019.
- Phạm Thị Hồng Thái (2016). Những yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn Tâm lí học đại cương ngành Ngôn ngữ văn hóa nước ngoài Trường Đại học Văn Hiến. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Văn Hiến, số 11, tr 9-13.
- Hoàng Minh Loan (2017). Phương pháp tạo hứng thú cho sinh viên khi học các học phần Lí luận chính trị. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt kì 1 tháng 10, tr 129-131.
- Nguyễn Hoàng Hiếu (2017). Một số biện pháp nâng cao hứng thú học tập các môn Lí luận chính trị tại Trường Đại học Công nghiệp Việt – Hung. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 4, tr 38-42;
- Vũ Thị Hồng Vân (2016). Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học – Một yêu cầu cấp bách hiện nay. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số định kì tháng 3, tr 59-61
- Nguyễn Thị Ánh Nguyệt – Đinh Thị Thu Hương (2017). Giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy học phần “Pháp luật đại cương” tại Trường Đại học Công nghiệp Việt – Hung. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 4, tr 43-46; 37.
Tác giả: TS. Nguyễn Văn Sỹ
Trường Đại học Thuỷ lợi