Tóm tắt: Với mục tiêu mô tả tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc Thái tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La năm 2022 và một số yếu tố liên quan. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 693 trẻ em dân tộc Thái ở địa phương trên cho thấy: Tỷ lệ trẻ em có suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là 25,4%, thể thấp còi là 31,75% và gày còm là 19,77%;Tỉ lệ trẻ có ít nhất một loại suy dinh dưỡng 76,91%. Các yếu tố liên quan tới tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn bao gồm cân nặng khi sinh thấp (OR= 3,50, 95%CI: 1,48 – 8,30), trẻ được mang thai khi mẹ trên 18 tuổi (OR=1,93, 95%CI: 1,03 – 3,58), kinh tế gia đình bình thường (OR=1,78, 95%CI: 1,34 – 2,37) hoặc nghèo (OR=3,22, 95%CI: 1,94 – 5,34); sống trong gia đình có trên 2 con (OR=2,55, 95%CI: 1,18 – 5,46) và nơi sống. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Thái ở Thuận Châu, Sơn La ở mức cao. Các yếu tố nhân khẩu học của trẻ, điều kiện kinh tế gia đình, tuổi mẹ khi sinh có liên quan tới tình trạng này.
Từ khóa: Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, suy dinh dưỡng thể thấp còi, suy dinh dưỡng thể gầy mòn, trẻ em dưới 5 tuổi, dân tộc Thái.
Tài liệu tham khảo:
- V. Chuc, N. X. Hung, V. T. Trang và các cộng sự. (2019), “Nutritional Status of Children Aged 12 to 36 Months in a Rural District of Hung yen Province, Vietnam”, Biomed Res Int, 2019, tr. 6293184.
- T. Le, T. T. D. Le, N. K. Do và các cộng sự. (2019), “Ethnic Variations in Nutritional Status among Preschool Children in Northern Vietnam: A Cross-Sectional Study”, Int J Environ Res Public Health, 16(21).
- Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La (2015), Giới thiệu huyện Thuận Châu, truy cập ngày 5/8/2023, tại trang web https: /net.vn/lDOr.
- Viện Dinh dưỡng và Tổng cục Thống kê (2021), Tỷ lệ Suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi theo các mức độ, theo vùng sinh thái năm 2020.
- Lê Thị Thu Hà, Phạm Duy Tường và Nguyễn Minh Trang (2020), “Suy dinh dưỡng và yếu tố liên quan ở trẻ dưới 5 tuổi dân tộc Chứt, Vân Kiều năm 2019”.
- S. Rahman, T. Howlader, M. S. Masud và các cộng sự. (2016), “Association of Low-Birth Weight with Malnutrition in Children under Five Years in Bangladesh: Do Mother’s Education, Socio- Economic Status, and Birth Interval Matter?”, PLoS One, 11(6), tr. e0157814.
- Alisjahbana, D. S. Rivami, L. Octavia và các cộng sự. (2019), “Intrauterine growth retardation (IUGR) as determinant and environment as modulator of infant mortality and morbidity: the Tanjungsari Cohort Study in Indonesia”, Asia Pac J Clin Nutr, 28(Suppl 1), tr. S17-s31.
- G. Aboagye, B. O. Ahinkorah, A. A. Seidu và các cộng sự. (2022), “Birth weight and nutritional status of children under ve in sub-Saharan Africa”, PLoS One, 17(6), tr. e0269279.
- Ambrogio P. Londero, Emma Rossetti, Carla Pittini và các cộng sự. (2019), “Maternal age and the risk of adverse pregnancy outcomes: a retrospective cohort study”, BMC Pregnancy and Childbirth, 19(1), tr. 261.
- Qihui Chen (2021), “Population policy, family size and child malnutrition in Vietnam – Testing the trade-off between child quantity and quality from a child nutrition perspective”, Economics & Human Biology, 41, tr. 100983.